Hôn nhân đồng giới không còn là vấn đề quá xa lạ trong xã hội hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, việc công nhân quan hệ kết hôn đồng giới ở Việt Nam vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Việt Nam có thừa nhận hôn nhân đồng giới không?
Nhà nước không công nhận hôn nhân đồng giới
Căn cứ Khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.”
Như vậy, Nhà nước không còn cấm những người có cùng giới tính kết hôn mà chỉ “không thừa nhận” mối quan hệ hôn nhân này. Đồng nghĩa, những người đồng tính có thể tổ chức đám cưới; sống chung với nhau như vợ chồng; nhưng không được thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Khi đó, hôn nhân giữa hai người có cùng giới tính sẽ không tồn tại; và không được pháp luật thừa nhận; nên không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; cấp dưỡng; thừa kế; tài sản chung vợ chồng…
Đồng thời, Nghị định 82/2020/NĐ-CP cũng quy định những người đồng giới kết hôn với nhau không còn bị phạt nhằm đồng bộ việc “không thừa nhận mà không còn cấm” tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Có được kết hôn với người đã chuyển giới không?
Theo quy định tại Điều 37 BLDS 2015 thì sau khi chuyển giới; đăng ký thay đổi hộ tịch thì người chuyển giới được quyền đăng ký kết hôn với người khác giới tính đã chuyển; và quan hệ hôn nhân này sẽ được pháp luật công nhận.
Hiện nay, quy định về kết hôn đồng giới tại Việt Nam đã mở hơn rất nhiều. Mặc dù không còn cấm nhưng Việt Nam cũng không công nhận mối quan hệ này.
Bài viết hữu ích: Thủ tục đăng ký kết hôn tại Việt Nam