Nhiều người thắc mắc rằng đối với hôn nhân có yếu tố nước ngoài thì cách xác định tài sản riêng của vợ chồng có yếu tố nước ngoài như thế nào?
Quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài là gì?
Khoản 25 Điều 3 Luật HN&GĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như sau:
“25. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Tài sản riêng của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Khoản 1 Điều 122 luật này về áp dụng pháp luật đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như sau:
“1. Các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”.
Do đó, việc xác định tài sản riêng này cũng phải tuân thủ theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 43 Luật HN&GĐ thì tài sản riêng của vợ chồng gồm:
– Tài sản mỗi người có trước khi kết hôn
– Tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân
– Tài sản có do phân chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
– Tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ chồng