Nước ta có hơn 54 dân tộc anh em, do đó trong Giấy khai sinh ngoài những thông tin cơ bản về về họ, tên và chữ đệm, giới tính, ngày tháng năm sinh, nơi sinh,quê quán thì nội dung không thể thiếu là dân tộc của người được khai sinh.
Về việc xác định dân tộc cho con khi khai sinh sẽ được thực hiện theo pháp luật Việt Nam và pháp luật dân sự . Căn cứ khoản 2 Điều 29 Bộ luật Dân sự 2015 quy định 03 trường hợp xác định dân tộc cho trẻ như sau:
1. Con có đầy đủ cả cha mẹ đẻ
Cha mẹ đẻ cùng dân tộc: Con sinh ra sẽ theo dân tộc của cha và mẹ đẻ.
Cha mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau: Dân tộc của con sẽ được xác định như sau:
- Theo sự thỏa thuận của cha mẹ đẻ: Theo cha đẻ hoặc theo mẹ đẻ.
- Không thoả thuận được: Dân tộc của con xác định theo tập quán. Nếu tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.
2. Trẻ bị bỏ rơi, chưa xác định được cha mẹ đẻ và được nhận con nuôi
Được xác định theo dân tộc của một trong hai người, cha nuôi hoặc mẹ nuôi (nếu cha mẹ nuôi có thỏa thuận). Nếu chỉ có một người nhận nuôi thì dân tộc cho trẻ sẽ được xác định theo dân tộc của người đó.
3. Trẻ bị bỏ rơi, chưa xác định được cha mẹ đẻ và chưa được nhận nuôi
Xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng/người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em đó vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ.