Việc xác định tài sản chung, riêng là vấn đề nhạy cảm nhưng quan trọng trong hôn nhân. Có phải chỉ khi đăng ký mới được xem là tài sản chung của vợ chồng không?
Mọi tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký mới được công nhận?
Căn cứ theo Điều 34 Luật HN&GĐ quy định về việc đăng ký tài sản chung của vợ chồng như sau:
“1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”
Đồng thời tại Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn:
“Tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký theo quy định tại Điều 34 của Luật Hôn nhân và gia đình bao gồm quyền sử dụng đất, những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu.”
Như vậy, không tài sản chung nào cũng phải đăng ký, chỉ đăng ký đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Trường hợp này giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Những tài sản còn lại mặc dù không đăng ký nhưng vẫn có các chứng cứ khác để được xem là tài sản chung.