Theo quy định của pháp luật tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà nói riêng và của vợ chồng nói chung, vậy đất đai có là tài sản chung khi vợ hoặc chồng là người nước ngoài?
1. Theo quy định của BLDS 2015:
Theo quy định của Điều 105 BLDS 2015 quy định về khái niệm Tài sản, theo đó Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền sử dụng, định đoạt (bao gồm bất động sản và động sản).
Như vậy, bất động sản (đất đai, nhà ở) cũng được xác định là tài sản chung của nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định của khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ.
Tuy nhiên, theo quy định của Điều 5 Luật đất đai 2013 quy định về người sử dụng đất thì người không có quốc tịch Việt nam không phải chủ thể có quyền sử dụng đất tại Việt Nam.
2. Quy định theo Luật HN&GĐ 2014:
Căn cứ theo quy định của khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ 2014.
- “…Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Theo đó, mặc dù người không mang quốc tịch Việt Nam không có quyền sử dụng đất tại Việt Nam nhưng nếu họ có vợ/chồng là người Việt và mua đất đai trong thời kỳ hôn nhân thì thửa đất, lô đất đó đương nhiên xác định là tài sản chung.
Quy định này đã khắc phục và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp công bằng cho người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam khi hai bên có tài sản với nhau. Đồng thời vẫn tuân thủ tính chất lãnh thổ của đất đai theo quy định pháp luật hiện hành.