Việc lập di chúc và chỉ định người được nhận di sản là quyền của người có tài sản, tuy vậy, hiện nay vẫn còn nhiều trường hợp người lập di chúc để lại di chúc nhưng di chúc đó lại bị vô hiệu.
Có 02 trường hợp di chúc vô hiệu toàn phần như sau:
Thứ nhất, không đáp ứng các điều kiện để di chúc hợp pháp
Di chúc không đáp ứng được một trong các điều kiện để di chúc hợp pháp cả về mặt nội dung hoặc hình thức sau đây thì đều bị coi là vô hiệu:
- Về năng lực pháp luật của chủ thể: nếu người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì di chúc đó bị vô hiệu;
- Về mặt nội dung: di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật;
- Di chúc không đáp ứng đủ các điều kiện về mặt hình thức để di chúc hợp pháp.
Nếu tất cả nội dung đều vi phạm thì di chúc sẽ bị vô hiệu toàn bộ. Nếu chỉ có một nội dung vi phạm, không ảnh hưởng đến các nội dung khác thì chỉ phần nội dung đó không có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, di chúc không có hiệu lực pháp luật
Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp:
- Toàn bộ người thừa kế đều không còn vào thời điểm mở thừa kế và không có người thừa kế kế vị. Người thừa kế có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Nếu là cơ quan, tổ chức thì không còn vào thời điểm mở thừa kế.
- Toàn bộ di sản thừa kế để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
- Nếu một người lập nhiều bản di chúc thì chỉ bản di chúc hợp pháp cuối cùng có hiệu lực pháp luật còn lại các bản trước đó đều bị vô hiệu.